TT |
Cây trồng |
Diện tích (ha) |
Sản lượng (tấn) |
Năng suất (tạ/ha) |
1 |
Lúa |
9.531 |
56.559 |
59,3 |
2 |
Ngô |
1.176 |
6.531 |
55,5 |
3 |
Khoai lang |
338 |
1.228 |
36,3 |
4 |
Sắn |
562 |
9.154 |
162,9 |
5 |
Mía |
690 |
26.055 |
378 |
6 |
Đậu tương |
34 |
66 |
19,4 |
7 |
Dâu tằm |
20 |
300 |
150 |
8 |
Lạc |
865 |
1.778 |
20,6 |
9 |
Rau các loại |
1.391 |
18.950 |
136,2 |
10 |
Đậu các loại |
507 |
1.046 |
20,6 |
Ngành chăn nuôi được chú ý phát triển, trong đó chủ yếu là chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, heo, gà, vịt, dê... Số lượng vật nuôi ở Mộ Đức năm 2005 như sau: 1) Trâu 1.656 con (nhiều nhất ở các xã Đức Phú 420 con, Đức Hòa 235 con, Đức Phong 253 con); 2) Bò 19.026 con (nhiều nhất ở các xã Đức Lân 2.860 con, Đức Phong 2.090 con, Đức Phú 2.540 con); 3) Lợn 90.570 con (nhiều nhất ở các xã Đức Phong 15.088 con, Đức Chánh 14.072 con, Đức Nhuận 12.304 con); 4) Dê 1.621 con; 5) Gà 161.500 con; 6) Vịt 116.000 con; 7) Ngan, ngỗng 137.145 con.
Nghề nông ở Mộ Đức ngày nay còn có thêm các trang trại, phát triển kinh tế vườn rừng và bước đầu gặt hái được nhiều kết quả đáng chú ý. Đến năm 2005 địa hạt Mộ Đức có 68 trang trại, trong đó có 27 trang trại trồng cây lâu năm, 17 trang trại chăn nuôi, 9 trang trại trồng cây hàng năm, 9 trang trại lâm nghiệp, 6 trang trại thủy sản. Cư dân Mộ Đức vốn có truyền thống làm thuỷ lợi, như đào sông Thoa, làm các bờ xe nước trên sông Vệ (có từ mấy trăm năm trước), đào kênh Tứ Đức, kênh tiêu Bàu Súng (trong kháng chiến chống Pháp), đắp các hồ chứa nước (Hóc Sằm, Mạnh Điểu, Lổ Thùng, Hóc Mít...). Sau 1975, có trạm bơm Nam Sông Vệ, kênh mương Thạch Nham... và các đập. Thủy lợi xưa nay đều có nhiều công trình nổi bật, phục vụ tốt cho canh tác. Tuy vậy, vẫn còn vấn đề rất nan giải là tiêu úng ở vùng hạ lưu sông Thoa ở phía đông Mộ Đức chưa được giải quyết căn bản.
Trong lâm nghiệp, rừng núi Lớn có nhiều dầu rái, trái ươi, xưa nay đều được khai thác, từ năm 1924 được đặt thành rừng cấm. Hiện nay rừng núi Lớn là khu rừng quan trọng nhất ở địa hạt Mộ Đức, được khoanh nuôi, bảo vệ. Ở ven biển có đai rừng phòng hộ chủ yếu trồng phi lao. Nghề rừng xưa cung cấp nhiều nguyên vật liệu thiết yếu cho sinh hoạt và sản xuất, ngày nay chủ yếu là trồng và chăm sóc rừng.
Trong ngư nghiệp, do không có cửa biển, nghề đánh bắt cá ở Mộ Đức ít có cơ hội phát triển như các huyện ven biển khác của tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, nghề cá vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân Mộ Đức xưa nay với ý nghĩa nó là một nguồn cung cấp thực phẩm đáng kể. Cư dân dọc bờ biển đều ít nhiều làm nghề đánh bắt cá, tuy rằng sản lượng đánh bắt còn thấp. Ngày nay, song song với nghề đánh bắt cá, nghề chế biến thuỷ sản cũng được duy trì, đáng chú ý có nghề làm mắm ở Đức Lợi, đặc biệt nghề nuôi tôm trên cát mới phát triển ở các xã Đức Minh, Đức Phong. Cư dân Mộ Đức còn tận dụng các hồ chứa nước, các chân ruộng nước kết hợp nuôi cá nước ngọt để tăng thu nhập.
Xét về giá trị sản xuất thủy sản năm 2005 đạt 82,850 tỉ đồng, trong đó nuôi trồng chiếm đến 66 tỉ đồng. Như vậy thủy sản có xu hướng phát triển, nhưng nằm ở ngành nuôi trồng.
Về nguồn nhân lực hoạt động thuỷ sản, năm 2005 Mộ Đức có 2.035 lao động đánh bắt (với 754 hộ), phần lớn đều ở các xã Đức Lợi (1.680 lao động), Đức Minh (250 lao động); có tổng số 310 lao động nuôi trồng (với 152 hộ), chủ yếu ở các xã Đức Phong, Đức Minh, Đức Lợi. Phương tiện khai thác thủy sản ở Mộ Đức có 103 tàu có động cơ với tổng công suất 2.600CV, chủ yếu vẫn là xã Đức Lợi; có 80 thuyền không động cơ. Sản lượng đánh bắt năm 2005 là trên 2.105 tấn, còn rất nhỏ so với các huyện có biển khác. Diện tích nuôi trồng thủy sản (chỉ tính nuôi tôm) 190,30ha, sản lượng đạt 1.360 tấn (tôm 1.310 tấn), chủ yếu ở các xã Đức Phong, Đức Minh. Tuy nhiên, việc mở rộng nuôi trồng thủy sản đặt ra vấn đề khá hóc búa về môi trường.
Tiểu thủ công nghiệp
Dù tiểu thủ công nghiệp ở Mộ Đức chưa chiếm một giá trị cao (122,850 tỉ đồng theo giá hiện hành 2005), nhưng từ trong truyền thống, ở đây đã có những nghề khá phát triển. Nổi bật nhất là nghề đúc đồng ở Chú Tượng (Đức Hiệp). Nghề đúc đồng Chú Tượng có từ lâu đời, khá nổi tiếng, nhưng cho đến nay, đang hoạt động cầm chừng vì chưa thích ứng được với điều kiện mới. Ở Mộ Đức còn có nghề chế biến mạch nha, một đặc sản nổi tiếng ở Quảng Ngãi. Mạch nha ban đầu sản sinh ở Đồng Cát, Thi Phổ, sau lan ra nhiều nơi trong huyện, trong tỉnh, tuy vậy mạch nha ở Đồng Cát, Thi Phổ vẫn thơm ngon nhất. Ở Đức Chánh có nghề đan võng. Ở Đức Lân có nghề làm quạt giấy. Ở Đức Hiệp có nghề ươm tơ dệt lụa. Ngày nay, các nghề thủ công mới xuất hiện ngày một nhiều, như nghề làm đồ sắt, cưa xẻ gỗ, làm gạch, sửa chữa điện tử, cơ khí. Nghề làm gạch ngói khá thịnh hành ở xã Đức Nhuận. Năm 2005, toàn huyện có 1.931 cơ sở công nghiệp cá thể với 3.440 lao động.
Thương mại - dịch vụ
Cư dân Mộ Đức xưa tuy không chuyên nhiều về nghề buôn nhưng các hoạt động buôn bán vẫn được chú ý. Việc buôn bán xưa chủ yếu theo đường Thiên Lý, đường thuỷ trên sông Vệ và đường dọc biển. Người dân Mộ Đức còn lặn lội lên miền núi - chủ yếu ở các làng thuộc địa phận Ba Tơ ngày nay - buôn bán, trao đổi với đồng bào Hrê.
Các chợ hình thành dọc đường Thiên Lý là các chợ nổi tiếng nhất, như câu ca dao sau đây:
Kể từ Sông Vệ, chợ Gò,
Ngó qua Thi Phổ thấy đò Giắt Dây
Chợ Đồng Cát mua bán sum vầy
Ngó vô Lò Thổi thấy cây xùm xoà
Tú Sơn một đỗi xa xa....
Chợ Năng An bên sông Vệ, chợ Gò tức chợ Quán Lát, chợ Đồng Cát, chợ Lò Thổi, chợ Thạch Trụ... là những trung tâm buôn bán xưa nay ở Mộ Đức. Dịch vụ cũng dần phát triển theo thời gian. Từ thời phong kiến, trên đường Thiên Lý ở địa bàn Mộ Đức có quán Bồ Đề (nổi tiếng rượu ngon), rồi quán Địa Thi (Thi Phổ), có dịch vụ xe ngựa, cáng võng trên đường. Thời Pháp thuộc có thêm một số dịch vụ như cắt tóc, may mặc, điện tín (ở ga Vạn Tây). Thời hiện đại, việc buôn bán và làm dịch vụ của cư dân Mộ Đức ngày càng phong phú. Các trung tâm thương mại, dịch vụ dọc Quốc lộ 1, đặc biệt là Nam Sông Vệ, Đồng Cát, Thạch Trụ khá phát triển. Trong đó Thạch Trụ phát huy cao nhất ưu thế của mình là một giao điểm giữa 2 quốc lộ (Quốc lộ 1 và Quốc lộ 24), là một điểm xuất phát dẫn lên Tây Nguyên. Thời phong kiến, suối khoáng Thạch Trụ đã được biết đến. Thời Pháp thuộc, quan chức thực dân từng tìm đến đây chữa bệnh. Nhưng cho mãi đến gần cuối thế kỷ XX, ở đây mới ra đời một cơ sở dịch vụ du lịch. Tại các bãi biển như Tân Định, Lâm Hạ trước đây hoang vắng nay đã có dịch vụ tắm biển, tuy chưa thu hút thật đông khách, nhưng du lịch ở Mộ Đức đã bắt đầu phát triển. Theo thống kê của Mộ Đức cho biết, năm 2005 toàn huyện có 3.398 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ với 3.978 lao động, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 161,32 tỉ đồng.
Về cơ sở hạ tầng
Xưa kia Mộ Đức cơ bản là vùng nông thôn đồng bằng nhiều bùn lầy nước đọng, cơ sở hạ tầng hầu như không có gì đáng kể. Thời phong kiến chủ yếu là đường Thiên Lý chạy từ bắc đến nam huyện, có trạm Nghĩa Sơn ở Thạch Trụ, đường lên nguồn Ba Tơ cũng xuất phát ở đây. Thời Pháp thuộc, Quốc lộ 1 và đường sắt được xây dựng. Tuyến băng qua Mộ Đức có các ga Lam Điền, Vạn Tây, Thạch Trụ, đều là những ga xép. Trải qua chiến tranh, đường sá ít ỏi đó đã bị hư hại nhiều. Từ sau năm 1975, việc giao thông được chú ý xây dựng. Bên cạnh trục Quốc lộ 1 được nâng cấp, Quốc Lộ 24 dẫn lên Tây Nguyên được xây dựng, các trục tỉnh lộ Quán Lát - Đá Chát, Đồng Cát - Suối Bùn, đường quốc phòng Bồ Đề - Đức Lợi - Mỹ Á, đường nối từ Quốc lộ 1 xuống các vùng biển ở Đức Minh, Đức Phong, các cầu Văn Hà, Tân Phong được xây dựng. Phong trào làm giao thông nông thôn phát triển. Tất cả đã đã khiến việc giao thông - vận tải ở địa hạt Mộ Đức khá thông thuận.
Xưa ở địa hạt Mộ Đức có dịch trạm của nhà nước phong kiến đóng ở Thạch Trụ (trạm Nghĩa Sơn) là trạm vận chuyển, đưa công văn của các triều đình phong kiến. Từ thời Pháp thuộc, hệ thống thông tin có một số thay đổi. Thời kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ thống thông tin liên lạc được xây dựng phục vụ sự nghiệp cách mạng. Sau năm 1975, bưu điện huyện được xây dựng. Hiện tại bưu điện huyện có tổng dài điện tử 100.000 số, các bưu cục cấp 3 ở Quán Lát, Thi Phổ, Thạch Trụ, các bưu điện văn hóa xã đã được xây dựng. Số người dùng điện thoại ở địa bàn huyện ngày càng tăng nhanh, phổ biến (năm 2005 là 8.303 máy điện thoại cố định, 1.325 máy điện thoại di động).
Về điện, trước năm 1975, ở địa hạt Mộ Đức chỉ có vài máy phát điện công suất nhỏ, chủ yếu dùng cho bộ máy chính quyền địch. Điện chỉ thực sự xuất hiện từ sau năm 1975. Mạng lưới điện quốc gia đưa về Mộ Đức vào những năm đầu của thập niên chín mươi thế kỷ XX, hầu khắp mọi thôn xóm đều đã có điện. Lượng điện dùng cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng tăng cao.
Địa hạt Mộ Đức có di sản văn hóa khá phong phú. Về văn hóa phi vật thể, có ca dao, hát hố, hát bả trạo, đặc biệt là hát múa sắc bùa ở vùng biển, vùng giáp giới với huyện Đức Phổ (thôn Văn Hà, Thạch Than, thuộc xã Đức Phong), kinh nghiệm làng nghề đúc đồng ở Chú Tượng (xã Đức Hiệp), ươm tơ dệt lụa ở Phú An... Trong văn hóa bác học, thời phong kiến có Phó bảng Nguyễn Bá Nghi với tác phẩm Sư Phần thi văn tập; Cử nhân Nguyễn Trọng Biện có Hà đê tấu tư tập (chữ Hán). Văn học thành văn tiếp tục phát triển với thơ văn yêu nước của các chiến sĩ cộng sản. Về văn hóa vật thể, Mộ Đức còn khá nhiều nhà rường có giá trị, chủ yếu ở xã Đức Nhuận và thị trấn huyện lỵ. Mộ Đức có 24 di tích đã được xếp hạng, có 2 di tích quốc gia, đáng chú ý như thắng cảnh núi Long Phụng - Chùa Hang, di tích lịch sử thì có đền Văn Thánh (Văn Bân), các nhà thờ tiền hiền Trần Cẩm, Nguyễn Mậu Phó, Trần Văn Đạt, tộc Trần ở Văn Bân, nhà thờ Lê Quang Đại (xã Đức Nhuận), di tích lịch sử cách mạng và di tích chiến thắng ở Địa đạo Đức Chánh, Rừng Nà, Hầm Bà Noa, Mỏ Cày, Đồng Mả, có các di tích các vụ thảm sát của quân Pháp và Mỹ ở Trà Niên, Hầm Xác Máu, Tân An, Phú Lộc, Lâm Sơn (đều nằm ở vùng đông huyện); có các di tích lưu niệm danh nhân Phạm Văn Đồng, Trần Hàm (ở Đức Tân). Các di tích ở Mộ Đức đã và đang được bảo tồn, tôn tạo, xây dựng bia bảng. Ở địa điểm chiến thắng Mỏ Cày đã dựng tượng đài bên Quốc lộ 1 thuộc địa phận xã Đức Chánh.
Văn hóa mới ở Mộ Đức có những điểm nổi bật: Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa phát triển khá, việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa được chú trọng, văn nghệ, thể thao quần chúng có phong trào đều khắp.
Về giáo dục, việc học ở Mộ Đức phát triển khá sớm và có nhiều người thành đạt. Thời kỳ Nho học, địa hạt Mộ Đức (chỉ tính trong ranh giới huyện ngày nay) có 26 người đỗ từ Cử nhân trở lên, trong đó có một Phó bảng đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi (Nguyễn Bá Nghi), 2 Giải nguyên (Phạm Văn Chất, Trần Phan). Đến thời Tân học, có một số người đỗ Tú tài tân học và sau này trở thành các nhà cách mạng nổi tiếng như Tú Đồng (Phạm Văn Đồng), Tú Thiệu (Nguyễn Thiệu). Thời kỳ 1945 - 1954, các xã của Mộ Đức đều có trường Tiểu học, huyện có Trường Trung học cơ sở Nguyễn Bá Loan. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở vùng tạm chiếm có Trường Bán công Nguyễn Công Trứ ở quận lỵ và các trường Tiểu học ở xã; ở vùng giải phóng, ngành giáo dục cũng có những bước phát triển khá. Trong 30 năm 1975 - 2005, giáo dục phát triển mạnh. Trên địa bàn huyện có 4 trường Trung học phổ thông (Mộ Đức I, Mộ Đức II, Trần Quang Diệu, Nguyễn Công Trứ). Ở các xã có 15 trường Trung học cơ sở, 21 trường Tiểu học và 19 trường Mẫu giáo. Địa hạt Mộ Đức ở thời điểm năm 2005 có 863 lớp học, 1.269 giáo viên với tổng số 32.529 học sinh phổ thông. Có Trường Trung học cơ sở Nguyễn Trãi là trường chuyên của tỉnh. Học sinh Mộ Đức nhiều người học giỏi.
Nhiều người con của quê hương Mộ Đức có học hàm, học vị cao và có tiếng tăm trong nước như Giáo sư Đặng Biên, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Phụ, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Ba, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Trân, Giáo sư Nguyễn Văn Sanh, Giáo sư Nguyễn Hóa, Phó Giáo sư Nguyễn Văn Hùng, Phó Giáo sư Huỳnh Như Phương, Phó Giáo sư Lê Trung Hoa, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trịnh Sâm...
Về y tế, hệ thống chăm sóc sức khoẻ ở địa hạt Mộ Đức ngày nay khá hoàn chỉnh: ở huyện có Trung tâm y tế huyện, ở xã có trạm xá xã, đều có y bác sĩ. Xưa kia, y tế ở Mộ Đức dựa vào Đông y với sự khám, chữa bệnh của các thầy thuốc ở làng xã. Thời Pháp thuộc, Tây y mới bắt đầu manh nha. Trong kháng chiến chống Pháp, y tế Mộ Đức phát triển song song cả Đông y - Tây y. Thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có bệnh viện Mộ Đức do chính quyền Sài Gòn thiết lập ở Thiết Trường, ở xã có trạm xá xã. Ở vùng giải phóng, có bệnh xá C20 và các trạm phẫu, hình thành mạng lưới y tế xã, thôn. Từ 1975 đến 2005, công tác y tế được chú trọng và ngày càng phát triển rộng, có cả y tế dự phòng, y tế cộng đồng, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình. Trên địa bàn huyện có 1 bệnh viện trung tâm, 2 phòng khám khu vực, 1 đội vệ sinh phòng dịch, 13 trạm y tế xã, thị trấn, tổng số giường bệnh là 175 giường, có 146 cán bộ y tế trong đó có 38 bác sĩ.
Mộ Đức là huyện có mật độ dân số cao, nghề nông vốn là ngành sản xuất chính nhưng bình quân ruộng đất trên đầu người quá thấp, nên vấn đề lao động và việc làm là vấn đề hàng đầu đặt ra khá cấp bách. Lao động dôi dư khá lớn khiến có nhiều người đi tìm phương kế sinh sống ở xa. Lao động ở Mộ Đức đông đảo, hầu hết xuất thân từ nông dân, cần cù, có trình độ tương đối khá. Mộ Đức đang đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đa dạng hóa các ngành nghề để giải quyết vấn đề lao động - việc làm, khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, đất đai và các tiềm năng khác, nhằm xây dựng huyện thành huyện vững mạnh của tỉnh Quảng Ngãi.
Lê Quang Việt - Sưu tầm.